- Mô tả hình thái
Đước đã được nhiều tác giả Việt Nam mô tả như Phạm Hoàng Hộ, Nguyễn Hoàng Trí (1996), Nguyễn Ngọc Bình (1998), Lê Công Khanh (1988), Phan Nguyên Hồng (1997), Đặng Trung Tấn (1999).
Đước là loài cây thân gỗ cao từ 20 – 35m, đờng kính thân cây (D1,3) 30 – 45cm, có khi tới 70cm (Hồng, 1997). Ở một số vùng đất cao, nghèo dinh dưỡng, không ngập triều chúng thường có kích thước nhỏ hơn và tăng trưởng chậm hơn.
Rễ có đặc trưng điển hình cho thực vật sống trong vùng có thủy triều lên xuống, thường xuyên bị tác động bởi sóng biển, kết cấu của đất chưa ổn định. Rễ cọc ít phát triển, chủ yếu là hệ thống rễ chống (rễ chân nôm) gồm từ 8 – 12 rễ. Ngoài nhiệm vụ giữ cho cây đứng vững trước gió bão, còn có nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây. Rễ thở hay rễ khí sinh cũng thường thấy ở loài đước, chúng mọc trực tiếp trên thân cây nơi ít khi ngập nước làm chức năng hô hấp.
Thân cây đước tròn thẳng, vỏ dày màu nâu xám đến nâu đen và có nhiều vết nứt dạng ô vuông. Là cây có đặc tính phân cành cao và có tán lá hình dù lúc nhỏ (1- 5 tuổi), biến đổi thành hình trụ lúc cây từ 6 tuổi trở đi, cành thường nhỏ và có khả năng tỉa cành tự nhiên tốt.
Lá đơn, mọc đối từng đôi một, phiến lá hình thuôn dài, đầu lá nhọn, gốc lá hình nêm, gân lá nổi rõ ở mặt dưới, màu xanh biếc ở mặt trên và lượt ở mặt dưới, cuống lá dài 1,5 – 2 cm. Cụm hoa hình tán, mỗi cặp có 2 hoa mọc từ nách lá, hoa không cuống, màu đỏ lợt.
Quả hình quả lê, dài 20-25 cm, đường kính quả từ 1-2 cm, phình to ở phía dới. Quả chín khi có vòng cổ (giữa quả và trụ mầm) dài 1,5 – 2 cm có màu cánh dán, lúc này có thể hái để trồng.
Cây thường ra hoa vào tháng 4-5, chín vào tháng 7-10, nhng cuối mùa rất rễ bị sâu, mọt đục quả.
- Đặc điểm sinh thái
Đước đôi phân bố tương đối rộng lớn ở các vùng ven biển nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm như vùng Malaysia, Indonesia, Banglades, Thailand, Philippiness, PapuaNew Guinea, Queenland. Ở Việt Nam, đước phân bố từ ven biển miền Trung đến Cà Mau, Kiên Giang. Nhưng diện tích lớn nhất và tập trung nhiều nhất ở Cà Mau, Bến Tre và Cần Giờ – thành phố Hồ Chí Minh với khoảng 60.000 – 70.000 ha.
Đước có thể phân bố thành các quần thụ tập trung có diện tích rộng lớn, tạo ra kiểu rừng thuần loài, chủ yếu gặp ở Cà Mau, Cần Giờ, Bến Tre… Cũng có thể kết hợp với một số loài cây rừng ngập mặn khác, tạo ra các quần xã thực vật rất phong phú như quần xã hỗn giao đước – mắm trắng, quần xã đước – vẹt dù, quần xã đước – dừa nước, quần xã hỗn giao giá – đước, quần xã hỗn giao dà – đước.
Đước phân bố ở vùng ven biển các nớc nhiệt đới và cận nhiệt đới, thích hợp ở vùng thấp thoáng khí, giàu chất hữu cơ, thành phần cơ giới đất chủ yếu là sét, mùn và ít cát, thường gần các cửa sông ven biển. Đôi khi phân bố ở vùng đất có độ cao tới 40 m so với mặt nước biển (Christensen, 1983).
Đước a khí hậu nóng ẩm, có cường độ chiếu sáng mạnh, có lượng mưa hàng năm cao từ 1.500 – 2.500 mm.
Độ mặn của nước, đất biến động từ 5%o đến 60%o, nhưng thích hợp nhất vào khoảng 25 – 30%o. Theo Fiel (1984), cây điều tiết cân bằng muối bằng cách cản muối ở rễ, tiết muối qua tuyến tiết muối trên lá và cành non.
Ảnh hưởng của địa hình: độ ngập triều trung bình từ 100 – 300 ngày/năm thích hợp cho sự sinh trưởng của đước, độ ngập triều thấp như: bãi bồi ven biển, vùng trũng nội địa… thời gian ngập trên 300 ngày/năm và độ ngập triều cao dới 100 ngày/năm không thích hợp cho sự sinh trưởng của đước.
- Công dụng
Vai trò của rừng đước được biết đến như là một nơi cung cấp gỗ, củi phục vụ xây dựng, chất đốt. Gỗ có tỷ trọng cao nên khi hầm than tạo ra nhiệt lượng rất cao (1kg than cho 6.675 Kcalo), được người dân ưa thích sử dụng trong nấu nướng và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị, được xuất đi các nơi như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
Gỗ còn dùng xẻ ván, làm ván sàn, đóng đồ gia dụng nh bàn ghế, giường, tủ… Vỏ đước có chứa nhiều tanin, dùng để nhuộm lới, công nghiệp thuộc da, công nghệ in…
Là nơi thu hút các loài động vật như thú, chim, bò sát, lưỡng cư… sinh sống. Là nơi ở và sinh sống của nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, động vật đáy, cá các loại…
Là nơi cung cấp thức ăn và duy trì chu trình vật chất và năng lượng cho cả hệ sinh thái. Bảo vệ bờ biển, chống xói mòn đất, cố định các bãi bồi ven biển, chống gió bão, sóng thần… và phòng hộ cho nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp…
Cung cấp ôxy và điều hòa khí hậu, tạo môi trường trong sạch, phục vụ du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học.