Tên khoa học: Rhamnoneuron balansae Gilg.
Tên Việt Nam: Cây Dó giấy
Tên khác: Dó, vỏ dó.
Họ: Trầm – Thymeleaceae.
- Mô tả hình thái
Dó giấy là loài cây bụi thân gỗ, cao trung bình 3,5- 4,0 m, một gốc thường có nhiều thân do cây chồi tái sinh hình thành, đường kính gốc trung bình cây chồi 4 năm từ 3,5- 4cm.
Vỏ dó nhẵn hoặc có vết nứt nhỏ dọc thân, màu nâu nhạt hay xám, vỏ cây tuổi 3- 4 năm có độ dày trung bình 3,0-3,5mm, lớp thịt vỏ dó sát phần gỗ màu trắng ngà có nhiều xơ sợi mềm và dai. Hàm lượng Cellulose trung bình từ 45-50% tùy theo tuổi cây. Tỷ lệ giữa trọng lượng vỏ khô không khí với vỏ tươi từ 1/3,5-1/4,0.
Dó có dạng lá đơn mọc cách đều nhau, phiến lá hình trái xoan, đầu hơi tròn, đuôi lá tù hoặc hình lưỡi mác, mép lá nguyên, kích thước dài 8-10cm, rộng 3,5-5,5cm, độ dày phiến lá từ 0,38-0,42mm (±0,02-0,03). Gân thứ cấp 14-18 đôi xếp đối nhau qua trục gân chính. Cuống lá nhỏ, màu đỏ, dài 4-5mm. Chồi búp màu xanh nhạt có nhiều lông mịn màu ánh bạc.
Hoa tự hình trùy, tập trung ở đầu cành gồm nhiều cụm nhỏ, mỗi cụm từ 3-4 hoa. Nụ hoa dạng hình cầu, lá bắc màu trắng hay phớt hồng hơi tím có nhiều lông mịn bao phủ. Đài hợp hình cốc thót 2 đầu, phía trên chia thành 4 thùy ngắn. Nhị 8 xếp thành 2 dãy, bao phấn 2 ô nứt dọc, bầu thượng 1 ô, 1 noãn.
Quả dó thuộc loại quả bế (khi chín không nứt), hình thành từng cụm trên đầu cành, mỗi cụm thường có từ 3-4 quả đính nhau ở cuống rất ngắn, chiều dài quả từ 1,0 -1,2cm, thiết diện ngang giữa quả có dạng hình vuông do 4 đường gờ nhỏ tạo thành, chiều rộng từ 3-4mm, mỗi quả có 1 hạt thuôn dài dạng hình thoi chiều dài từ 0,5-0,8cm, đường kính giữa hạt trung bình từ 1,0-1,5mm, xung quanh được bọc kín bằng lớp vỏ xốp, mềm, nhưng dai, do đó hạt khó tách khỏi lớp vỏ này và cũng khó thấm nước. Đặc trưng cơ bản của quả và hạt dó là nhỏ, nhẹ với một số chỉ tiêu cơ bản như sau:
Đ Độ thuần quả: 79,7%.
Đ Số lượng quả 100 gam: 3245 quả.
Đ Tỷ lệ quả có hạt: 80-90%.
Đ Trọng lượng 1000 hạt: 8,5 gam.
Đ Số lượng hạt trung bình 1 kg: 117.000 – 120.000 hạt.
- Đặc điểm sinh thái
Ở Việt Nam, dó giấy phân bố trong phạm vi từ 21o06 – 22o09 vĩ Bắc, độ cao từ 50-400m so với mặt biển. Dó phân bố và trồng tập trung nhiều nhất hình thành một vòng cung thuộc vùng trung du núi thấp từ vùng Đông Bắc qua Trung tâm đến một phần vùng thấp của Tây Bắc Việt Nam. Dó ưa thích khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, lượng mưa bình quân cao (1600-3800mm), nhiệt độ không khí trung bình 22,20C – 23,10C, độ ẩm không khí tương đối cao (82- 86%), tổng số giờ nắng từ 1520-1620 giờ.
Dó sinh trưởng, phát triển tốt trên các loại đất phong hóa từ đá mẹ biến chất như phiến thạch mica, diệp thạch kết tinh, gnai và nhóm đá trầm tích chua, các loại đất feralit vàng đỏ hoặc đỏ vàng, tầng đất dày, thành phần cơ giới từ thịt đến sét trung bình, độ pH từ chua đến hơi chua.
Dó tạo thành những quần thể sống hỗn loài dưới rừng cây lá rộng đang phục hồi, dưới các dạng rừng cọ (Livistona saribus Merril), xen cây gỗ như: ràng ràng mít (Ormosia balansae), chẹo (Engelhardtia chryrolepis), trám trắng (Canarium album), xoan đào (Prunus arborea) hoặc dó mọc thuần loại thành từng đám trong vườn rừng. Ngoài ra dó còn được trồng xen hàng hoặc theo băng với một số loài cây nguyên liệu giấy như: bồ đề (Styrax tonkinensís), mỡ (Manglietia glauca) cho kết quả sinh trưởng tốt.
Dó có khả năng tái sinh hạt ở bìa rừng hoặc nơi trống thích hợp xung quanh gốc cây mẹ. Đặc biệt dó tái sinh chồi rất mạnh ở hầu hết các độ tuổi khác nhau. Lợi dụng đặc tính sinh học này để trồng dó bằng biện pháp trồng cây thân cụt (Stump) và kinh doanh rừng dó nhiều năm bằng khai thác cây chồi nhiều luân kỳ.
Dó ra hoa từ tháng 10 đến tháng 12 dương lịch, quả chín rộ vào cuối tháng 3 đầu tháng 4 trong khoảng thời gian ngắn 15-20 ngày rồi rụng hết, do đó thời điểm thu hái cần được theo dõi chặt chẽ, song tốt nhất thường vào dịp tết Thanh Minh tức mồng 3 tháng 3 Âm lịch.
- Công dụng
Vỏ dó có hàm lượng Cellulose từ 40-50% (tùy theo tuổi cây), độ dài xơ sợi từ 6-7mm, chiều rộng 10mm, tỷ lệ giữa chiều dài trên chiều rộng lớn gấp 600 lần vì vậy sợi có độ bền cơ học cao.
Bột giấy dó có hàm lượng a-Cellulose từ 92-93%, trị số đồng thấp 1,13% so với chỉ tiêu bột giấy để sản xuất giấy chất lượng cao thì hàm lượng a-Cellulose phải ³ 90% và hàm lượng đồng Ê 1,5%. Do đó vỏ dó rất phù hợp cho sản xuất giấy chất lượng cao (tuổi thọ sử dụng đến 500 năm).
Theo kinh nghiệm truyền thống của ngời dân ở nhiều vùng trên miền Bắc Việt Nam vỏ dó được dùng để sản xuất các loại giấy bản, giấy viết chữ Hán, các loại giấy mền và dai như cốt giấy nến (Stencil), giấy vàng mã, giấy làm khăn ăn, giấy in tranh dân gian Đông Hồ. Đặc biệt hơn những bản sắc phong của các triều đại phong kiến từ thế kỷ thứ 15 ở Việt Nam được viết trên giấy dó đến nay vẫn còn lu trữ ở nhiều Đình, Chùa hay trong các kho lu trữ bảo tồn quốc gia. Ngoài ra lá, hoa và rễ cây dó còn được dùng làm thuốc theo kinh nghiệm truyền thống của ngời dân ở miền núi, phần gỗ thân cây làm nguyên liệu bột giấy hoặc củi đun rất tốt.
Hiện nay nhiều cơ sở tư nhân, các hợp tác xã sản xuất ngành giấy ở Bắc Ninh, Bắc Giang vẫn đang lu truyền và phát triển sản xuất giấy dó chuyên dùng theo tính chất thủ công truyền thống (Phong Khê – Đông Khê – Bắc Ninh).
Thực tiễn nhu cầu về giấy ngày càng tăng, không những về số lượng, chất lượng mà còn đa dạng phong phú về chủng loại. Bên cạnh các loại giấy sử dụng thông thường còn có nhu cầu cấp thiết về giấy chất lượng cao dùng cho lưu trữ, phục chế tài liệu, ấn phẩm lịch sử, văn hóa nghệ thuật quốc gia cần được lưu trữ lâu dài. Với những tính chất cơ lý và chỉ tiêu cơ bản của vỏ dó đã qua nghiên cứu và thử nghiệm cho thấy: bột vỏ dó hoàn toàn phù hợp cho sản xuất giấy chất lượng cao.