Home / Tài nguyên thực vật rừng / Maclurochloa vietnamensis sp. nov. – Giang

Maclurochloa vietnamensis sp. nov. – Giang

Tên khoa học: Maclurochloa vietnamensis sp. nov.

Tên Việt Nam: Giang

Tên địa phương: Giang rỗng, Mạy làng, Lau toóng, Lịnh rỗng.

  1. Đặc điểm nhận biết

Cây mọ trườn trên mặt đất hay leo trên ngọn cây gỗ xung quanh. Lóng 40-60cm hay hơn, đường kính 4-6cm(5cm), vách dày 6mm. Trên và dưới vòng mo có vòng phấn rộng mỗi bên 3cm; mắt lớn, nổi rõ, rộng rộng 3, 5cm, cao 3cm. Các lóng gốc có cành chính ở giữa phát triển to gần bằng thân tre, cành cấp hai nhiều, nhỏ hơn, gần bằng nhau, có khi đến 30 cành. Cành chính thường rất dài và phát triển giống như thân chính, nhờ đó cây dựa vào các cây gỗ xung quanh để leo cao. Bẹ mo hình thang, cao 17- 21cm, đáy rộng 10-12cm, đỉnh 6cm, phía ngoài bẹ có sọc màu tím, phủ nhiều lông màu hung nâu; tai mo  rộng 1,5cm, cao 5mm , có nhiều lông mi dài màu xám; thìa lìa 1mm; lá mo hình trứng- lưỡi mác, đứng thẳng hay lật lại , màu xanh vàng,chỗ rộng nhất 8cm, , đáy 4-5cm, cao10- 20cm, mặt lưng nhẵn, , có sọc tím, mặt bụng có nhiều lông hung; thìa lìa cao 0,5-1cm. Lá hình mác thuôn dài, đầu vút nhọn, gốc lệch,  mặt trên xanh đậm, dưới xanh nhạt, dài 25-30cm, rộng 2,5-3cm, tai lá nhỏ, nhiều lông mi dài, thìa lìa không rõ, bẹ lá có lông xám nhạt, sớm rụng. Bông chét cao 2,5cm, rộng 0,8cm. 3 hoa; dưới cùng là hoa cái, giữa là hoa lưỡng tính, trên cùng hoa bất thụ chỉ có mày lớn. Hoa lưỡng tính có một mày ngoài cao 1,1cm, hình trứng tam giác nhẵn, không lông mi, màu vàng rơm, đầu nhọn, mỗi bên 8-10 gân rõ; mày trong có 2 gờ có lông dài 1cm, mỗi bên 7 gân, giữa 2 gờ lõm 6-10 gân; mày cực nhỏ 3, dạng màng trong suốt, giữa có màu nâu, cao 1mm, đỉnh có lông mi ; nhị 6, 4 ngắn 2 dài; Bầu nhẵn có cuống bầu cực ngắn, có dạng 3 cạnh tròn, vòi xẻ từ gốc 2-3 vòi, có khi 1 trong 2 vòi lại xẻ 2, toàn bộ vòi phủ lông.

  1. Đặc tính sinh học sinh thái học.

2.1. Điều kiện tự nhiên

Cây ưa khí hậu nhiệt đới mưa, ẩm. Thường gặp Giang ở độ cao 100-700m so với mặt biển (có khi lên tới 700-1000m), độ dốc 20-30° . Thường gặp Giang trên các loại đất Feralit trên núi hoặc Feralit đỏ vàng trên đá trầm tích và mắc ma chua. Đất có mùn trung bình đến hơi ngheo, kết cấu hạt thô đến kết cấu viên, thành phần cơ giới thịt nhẹ.

2.2. Đặc điểm quần thể , sinh sản, sinh trưởng và phát triển

Giang thường xuất hiện sau nương rẫy, dưới tán rừng thứ sinh thưa, lẫn với cây gỗ hoặc nưa, vầu; thường mọc thành đám, từng đồi. ở rừng ổn định mỗi ha có khoảng 4500-5000 cây. Thân cây thường đổ ngả lên nhau nên trong rừng Giang rất kho đi lại. Hàng năm, Giang sinh  sản bằng măng – măng từ thân ngầm nằm trong đất nhưng cũng có thể từ mắt ở đốt trên thân khí sinh. Mùa măng tháng 7-10. Giang có hiện tượng khuy và tái sinh bằng hạt.

  1. Phân bố

Giang phân bố tự nhiên ở các tỉnh từ Quảng Nam trở ra, có nhiều ở trung tâm Bắc Bộ (khoảng 46.000 ha) và Bắc Trung Bộ (khoảng 166.000 ha).

  1. Giá trị sử dụng

Giang có tỉ lệ Xenlulô tương đối cao 52,27 % nhưng lignin lại thấp 21,59 %, pentosan 18,55 %. Sợi Giang dài trung bình 2,378mm, chiều rộng 12,92m, bề dày vách tế bào 5,86m , tỉ số chiều dài trên chiều rộng 183. Với thành phần hoá học và kích thước sợi như trên, đồng thời sợi Giang lại dễ tẩy trắng nên dùng Giang để sản xuất ra các loại giấy đặc biệt có độ mềm dẻo như giấy cuốn thuốc lá, giấy pơluya, giấy in tiền, giấy can vẽ…

Trong dân, Giang thường dùng để chẻ lạt đan lát làm hàng thủ công mỹ nghệ, làm đồ dùng hàng ngày…

Tuy Giang là nguyên liêu tốt cho ngành giấy nhưng do trữ lượng thấp lại khó khai thác nên nếu chỉ sử dụng Giang để sản xuất các loại giấy đặc biệt.

Măng Giang ăn ngon và ngọt được nhiều người ưa chuộng nhưng năng xuất thấp (măng nhỏ).

  1. Kỹ thuật kinh doanh

Từ trước tới nay Giang được coi là”của tự nhiên”, chưa ai nghĩ tới gây trồng ngay cả tu bổ chăm sóc, khai thác như thế nào cho có lợi nhất.

  1. Hiện trạng sản xuất

Do rừng Giang không được coi trọng nên bị khai thác một cách tuỳ tiện. Vì Giang thường đổ rạp, cành chằng chịt, rất khó khai thác nên thường bi chặt gần như trắng – những thân cành (cành trên thân khí sinh) dù non cũng bị chặt cùng thân chính. Vì vậy, rừng Giang đã rất phân tán, tái sinh lại phó mặc cho thiên nhiên nên bị cạn kiệt dần.

  1. Khuyến nghị

Mặc dù lượng Giang dùng không nhiều so với nhiều loài tre khác nhưng có giá trị làm nguyên liệu sản xuất giấy đặc biệt, làm hàng thủ công mỹ ngệ và dùng trong đời sống (ngày tết nhà nào cũng dùng lạt Giang gói bánh trưng); vì vậy,nếu không phát triển gây trồng thì giang cũng cần được chú ý bảo vệ, khai thác hợp lý để bảo đảm tái sinh lợi dụng lâu dài. Có nguồn Giang tốt sẽ cung cấp đầy đủ cho sản xuất các mặt hàng về Giang để xuất khẩu, không những là nguồn thu nhập cho người dân vùng núi mà còn tạo công ăn việc làm cho người dân vùng xuôi từ già trẻ đến gái trai, tăng hàng xuất khẩu, góp phần xoá đói giảm nghèo và không ngừng nâng cao đời sống.