Home / Tài nguyên thực vật rừng / Indosasa angustata McClure – Vầu đắng

Indosasa angustata McClure – Vầu đắng

Tên khoa học: Indosasa angustata McClure

Tên Việt nam: Vầu đắng

Tên địa phương: Vầu lá nhỏ

  1. Đặc điểm nhận biết:

Thân cao 17-20m, cao nhất 25m, đường kính 10-12cm, lớn nhất 20cm; gốc thân có 2 -3 vòng rễ khí; thân non màu lục nhạt, phủ thưa lông mềm màu trắng, về sau rụng đi trở nên không lông; thân già màu lục xám; chiều dài lóng giữa thân 30-50cm, dài nhất 80cm, tuỷ thân giống bọt biển và có dạng màng ngăn; vòng thân hơi nổi lên, nổi rõ từ giữa thân lên trên; vòng mo không lông; mỗi đốt thân phần lớn có 3 cành, có lúc 2 hay 1, ngả ra, vòng cành hơi nổi lên. Mo sớm rụng, dài hẹp, đầu hẹp dần, lúc tươi màu lục, sau khô màu nâu nhạt, không có chấm đốm, gờ dọc rõ, giữa các gờ có lông gai màu nâu,mép có lông mảnh; tai mo không phát triển, có 2-4 chiếc lông tua, dài 7-15mm, đứng thẳng; lưỡi mo nổi lên, cao 2-5mm, đầu có lông mảnh dạng tua; phiển mo hình lưỡi mác, màu đỏ tím nhạt, ở giữa màu lục, dài 7-15cm, ngả ra, chiều rộng đáy phiến mo hẹp so với đỉnh bẹ mo, hai mặt đều ráp. Cành nhỏ có 3-6 lá; bẹ lá không lông, mép đôi lúc có lông mảnh; tai lá thường không phát triển, số lông tua ít, đứng thẳng dễ rụng; phiến lá to hay khá to, hình lưỡi mác dạng dải, dài 11-28cm, rộng 1,5-5cm, mặt dưới màu lục xám, mọc thưa lông cứng ngắn, mép có răng cưa nhỏ, ráp, gân cấp hai 3-7 đôi, gân ngang nhỏ dạng ô vuông, mặt dưới rõ hơn mặt trên. Bông nhỏ giả to, đơn độc hay nhóm thành cụm 3-5-7 ở đốt cành, mỗi bông nhỏ có khoảng (8-) 9-10 (-12) hoa nhỏ; mày ngoài dạng tam giác cân, chiều cao 2cm, đáy rộng khoảng 1,5cm, cứng, mặt ngoài nhẵn bóng có nhiều gân dọc, mặt trong không lông; mày trong cao 1,7cm, đáy rộng khoảng 4mm, chất trong suốt, nhẵn bóng, mặt lưng có 2 gờ; cánh vảy 3, dạng trứng, chất trong suốt, đỉnh nhọn, mép đỉnh có một ít lông; nhị 6, bao phấn 2 ô, đỉnh bao phấn tù, chỉ nhị đính gốc, rời; bầu hình cọc sợi, không lông, vòi gần như không có, đầu nhuỵ xẻ 3, có nhiều lông vũ.

  1. Đặc tính sinh học, sinh thái học

2.1. Điều kiện tự nhiên: Cây ưa khí hậu ít nóng, mưa nhiều, độ ẩm cao; Nhiệt độ bình quân 21-220C, lượng mưa trên 1600mm (Bắc Quang – Hà Giang tới 4730mm), độ ẩm không khí 85-95%. Địa hình đồi núi lớn có thể bị chia cắt hình thành thung lũng, độ dốc khoảng 300. Độ cao so với mặt biển thường là 700 đến 1200m.

Đất hình thành từ các loại đá phiến, phong hoá tương đối kém. Thành phần cơ giới là đất thịt có đá lẫn. Tầng đất thường sâu 50-80cm. Đất thường có mầu nâu vàng, pH (KCl) = 3,2 – 4,6, C/N = 8,3 – 9,9, mùn tổng số (%) = 0,7 – 4,4, đạm tổng số (%) = 0,08 – 0,32.

2.2. Đặc điểm quần thể, sinh sản, sinh trưởng và phát triển

Rừng Vầu đắng là loại rừng thứ sinh hình thành sau khi rừng gỗ nguyên sinh bị phá hại. Tuỳ trạng thái rừng là hỗn giao với cây gỗ hay thuần loại, là mới phục hồi hay đã qua khai thác hoặc rừng tự nhiên ổn định mà mật độ cây trên 1ha biến động từ 1300 đến 6000 cây. Tỷ lệ cây già ở rừng ổn định thường gấp hơn 2 lần ở rừng mới phục hồi và ngược lại tỷ lệ cây non ở rừng già chỉ bằng 1/4 ở rừng phục hồi. Vầu đắng có khả năng chịu bóng, ưa ẩm. Vầu đắng sinh trưởng tốt ở rừng có cây gỗ ở tầng trên, sườn âm, chân đồi hoặc theo các khe núi; ở những nơi rừng thưa, nhiều ánh sáng Vầu đắng sinh trưởng có vẻ kém hơn.

Có hàng ngàn ha rừng Vầu đắng tự nhiên thuần loại hoặc hỗn giao với nhiều loại cây gỗ – gặp nhiều nhất là cây trong họ Đậu (Fabaceae), họ Re (Lauraceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae). Dưới tán rừng Vầu đắng ổn định thường gặp các loài cây ưa ẩm và ưa bóng như Thiên niên kiện (Homalomena occulta (Lour.) Schott), Sa nhân (Amomum villosum Lour.) đặc biệt cây Lá dong (Phrynium placentarium (Lour.) Merr.) như là cây chỉ thị cho đất rừng Vầu đắng – nơi nào Lá dong mọc tốt thì ở đấy rừng Vầu đắng cũng tốt. Thực vật ngoại tầng khá phổ biến là Song mây (Calamus spp.).

Vầu đắng ra hoa đầu cành, bông chét dài tới 10 cm mang nhiều hoa. Hoa kết hạt nẩy mầm cho một thế hệ mới nhưng chưa theo dõi được quá trình phát triển của cây tái sinh từ  hạt. Sau khi ra hoa cây bị chết. Vầu đắng cũng có thể ra hoa lẻ tẻ nhưng thường ra hoa rồi chết hàng lọat – Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước hầu hết Vầu đắng ra hoa rồi chết. Chu kỳ ra hoa chưa được theo dõi, nhưng theo người dân thì cũng khá dài, khoảng trên 50 năm.

Thân ngầm thường bò lan ở độ sâu 20-30cm có chỗ chồi cả lên mặt đất, hàng năm thân ngầm sinh trưởng từ tháng 6 đến tháng 11, mầm măng phát triển dưới mặt đất từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau, măng lên khỏi mặt đất đến lúc định hình từ tháng 2 đến tháng 5 – như vậy mùa măng Vầu đắng là mùa khô, đầu mùa mưa ( khác với các loài tre mọc cụm mùa măng thường vào mùa mưa). Măng tuy đã lên khỏi mặt đất nhưng chỉ sống 50% để phát triển thành cây, số măng chết thường ở độ cao dưới 1m. Vì vậy, có thể khai thác 1/2 số măng để làm rau ăn mà không ảnh hưởng gì đến rừng Vầu.

Cây 1-2 năm là tuổi non, cây 3-4 năm là tuổi vừa, từ 5 năm trở lên là già, tuổi thọ không quá 10 năm, tuổi khai thác là trên 4 năm.

Sau khi bị tác động, rừng Vầu đắng có khả năng phục hồi nhanh về số lượng (cây/ha) nhưng đường kính thì phục hồi rất chậm chạp.

  1. Vùng phân bố

Vầu đắng mọc tự nhiên và có nhiều ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Phú Thọ, Thái Nguyên, cũng có và có thể phát triển ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá.

  1. Giá trị sử dụng

Vầu đắng có tỷ lệ Xenlulo 43%, Lignin 25%, Pentosan 16%, sợi thường có chiều dài 2,726 mm chiều rộng 22,7m, vách tế bào dầy 10,34m. So với một số loài tre khác thì Vầu đắng có tỷ lệ Xenlulo hơi thấp, ngược lại tỷ lệ Lignin và Pentosan lại cao. Từ năm 1969 nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ cũng đã đưa Vầu đắng làm nguyên liệu sản xuất giấy. Vầu đắng được dùng làm nguyên liệu sản xuất đũa xuất khẩu nhưng sử dụng nhiều nhất vẫn là trong xây dựng.

Măng Vầu đắng được sử dụng làm thực phẩm, thường được ăn tươi nhưng cũng có thể muối chua hoặc phơi khô; măng đầu mùa thường ngọt, măng cuối vụ có vị đắng.

  1. Kỹ thuật kinh doanh

– Gây trồng: Theo kinh nghiệm của nhân dân và kết quả thăm dò gây trồng của Đoàn điều tra 5 của Viện điều tra quy hoạch rừng thì có thể trồng Vầu đắng bằng giống thân khí sinh 1 tuổi có mang cành lá và một đoạn thân ngầm 50-80cm; Trồng vào đầu mùa xuân, tỷ lệ sống đạt 80-90% và phát triển mạnh.

Thông thường chỉ cần bảo vệ măng, giữ rừng, khai thác hợp lý thì rừng Vầu đắng cũng phát triển nhanh.

– Khai thác: Cũng theo kết quả thí nghiệm về cường độ và chu kỳ khai thác Vầu đắng của đoàn điều tra 5 Viện điều tra quy hoạch rừng thì kỹ thuật khai thác tốt là chặt 1/3 số cây hiện có, chu kỳ 4 năm; có thể áp dụng công thức: chặt 1/2 số cây hiện có, chu kỳ 4 năm cho lần chặt đầu tiên rừng Vầu đắng ổn định trong tự nhiên có mật độ 6000 cây/ha và tỷ lệ cây già 60-70%.

  1. Hiện trạng sản xuất:

Vầu đắng rất ít được trồng, người dân thường trồng Vầu ngọt.

Lượng măng khai thác hàng năm khá nhiều (nhất là măng đầu mùa) nên ảnh hưởng đến sự phát triển rừng Vầu đắng.

Thân tre cũng được khai thác rất nhiều nhưng kỹ thuật còn tuỳ tiện. Rừng Vầu đắng vẫn được coi là của tự nhiên nên chưa được quản lý chặt chẽ, ít được chú ý chăm sóc bảo vệ, tu bổ nên  rừng cạn kiệt dần.

  1. Khuyến nghị:

Vầu đắng là loài cây có giá trị trong rừng thứ sinh tự nhiên, cần được quản lý chặt chẽ và áp dụng đúng kỹ thuật khai thác để duy trì và nâng cao chất lượng rừng đáp ứng yêu cầu cung cấp làm vật liệu xây dựng, nguyên liệu công nghiệp giấy và chế biến làm các mặt hàng trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra có thể khai thác măng. Trước mắt áp dụng các biện pháp khoanh nuôi bảo vệ tốt những khu rừng còn ít hoặc nghèo kiệt, khai thác hợp lý vì Vầu đắng chỉ có khả năng lan tràn và phục hồi nhanh về số lượng cây trên ha. Trong tương lai có thể gây trồng.

Kinh doanh tổng hợp các lâm sản ngoài gỗ có giá trị như Song mây, cây