Home / Tài nguyên thực vật rừng / Cassia siamea Lamark – Muồng đen

Cassia siamea Lamark – Muồng đen

Tên khoa học: Cassia siamea Lamark. 

Tên Vệt Nam: Muồng đen

Tên khác: muồng Xiêm.

Họ: Vang – Caesalpiniaceae.

 

  1. Mô tả hình thái

Muồng đen loài cây gỗ lớn, chiều cao đạt 20 – 25m, đường kính đạt 50 -60 cm. Thân hình trụ, vặn xoắn, phân cành sớm, lúc non có lông mịn. Vỏ xám, nứt nhỏ, nông, đều đặn, thỉnh thoảng tạo thành múi do thân vặn. Lá kép lông chim một lần chẵn, mọc cách, dài 10 – 25 cm mang 20 – 40 lá phụ, dạng hình chữ nhật thuôn đều 2 đầu, màu xanh lục, dài 3-7cm, rộng 1-2 cm. Lá kèm nhỏ, sớm rụng. Cụm hoa dạng chùm, mọc thẳng ở đầu cành, mang nhiều hoa màu vàng. Hoa có 5 cánh màu vàng, hình tròn, dày, không đều nhau, có lông mịn ở ngoài. Cánh tràng mềm, dễ rụng, có móng ngắn. Nhị có 2 cái, mở lỗ ở đỉnh. Bầu thuôn dài có lông mịn, vòi nhẵn. Quả dài, hẹp, dẹt, thẳng, màu đen, mép có gờ. Quả dài 20 – 30 cm, rộng 1-2 cm, mang 20 – 30 hạt. Hạt dẹt nổi rõ trên vỏ quả, cứng, 1 kg có 32.000 – 36.000 hạt.

 

  1. Đặc điểm sinh thái

Muồng đen phân bố ở Malaixia, Inđônêxia, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở Việt Nam thường gặp muồng đen các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum… Muồng đen phân bố ở những nơi có lượng mưa bình quân hàng năm từ 600 mm trở lên, một năm có 2-3 tháng khô hạn (lượng mưa dưới 50mm/tháng) trở lên vẫn sinh trưởng được, nhiệt độ bình quân năm từ 20-26oC, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất không dưới 15oC. Muồng đen là loài cây ưa sáng hoàn toàn. Muồng đen phân bố ở những đất feralit đỏ vàng phát triển trên bazan, poocphia, phiến thạch mica, đá vôi có thành phần cơ giới cát pha đến thịt nhẹ. Muồng đen sống được nơi đất xấu, nhưng cây cằn cỗi, thấp nhỏ, phân cành sớm, thân cành cong queo. Muồng đen mọc thành quần thụ trong rừng thứ sinh ở độ cao dưới 1200m, chúng thường chiếm tầng trên hoặc rìa rừng. Muồng đen tái sinh tự nhiên nơi đất trống. Muồng đen là loài cây rụng lá rải rác. Mùa hoa tháng 5-6 và quả chín tháng 2-4.

  1. Công dụng

Muồng đen dùng để trồng rừng lấy gỗ, trồng rừng phòng hộ, trồng làm cây phù trợ cho cây công nghiệp (chè, cà phê), trồng cải tạo đất, trồng cây bóng mát. Gỗ được dùng để đóng đồ trong gia đình hoặc làm đồ mỹ nghệ. Gỗ có giác và lõi phân biệt, giác màu vàng nhạt, lõi màu nâu vàng đến nâu đen.

Vòng sinh trưởng rõ ràng, thường rộng 4-6mm. Mạch đơn và kép ngắn phân tán, số lượng mạch trên 1mm2 ít, đường kính mạch lớn, trong mạch thường có thể nút hoặc chất chứa có màu nâu đen và trắng. Tia gỗ nhỏ và hẹp, thường có câu tạo thành tầng so le. Mô mềm dính mạch hình cánh, hình cánh nối tiếp phát triển thành những dải rộng hoặc hẹp, liên tục hoặc gián đoạn, lệch hoặc lượn sóng. Sợi gỗ dài trung bình và có những vách ngăn ngang.

Gỗ cứng và nặng, khối lượng thể tích gỗ khô 810kg/cm3. Hệ số co rút thể tích 0,62. Điểm bão hòa thớ gỗ 23%. Giới hạn bền khi nén dọc thớ 615kg/cm2, uốn tĩnh 1520kg/cm2, sức chống tách 20kg/cm. Hệ số uốn va đập 0,64.

Gỗ muồng đen có khả năng dùng trong những kết cấu chịu lực, chủ yếu là trong xây dựng và giao thông vận tải.