Home / Tài nguyên thực vật rừng / Bambusa procera A. Chev. Et A. Cam – Lồ ô

Bambusa procera A. Chev. Et A. Cam – Lồ ô

Tên khoa học: Bambusa procera A. Chev. Et A. Cam.

Tên Việt Nam: Lồ ô

  1. Đặc điểm nhận biết:

Lồ ô là loài tre to không gai, lá vừa, mọc cụm khá dầy đặc – thân ngầm dạng củ, thân khí sinh có ngọn rủ. Kích thước cây trung bình: Thân tre cao 16,5cm, ngọn cong rủ 1,5m, đường kính 7,6cm, dóng dài 42cm, vách thân dầy 1,1cm, thân tươi nặng trung bình 14,8kg. Thân tròn đều, nhẵn, vòng mo nổi rõ. Cành chính to dài, đùi gà pháp triển và ít cành nhỏ. Thân lúc non có mầu xanh bạc do có lớp lông trắng sớm rụng, càng về già, thân có mầu xanh đậm, xanh thẫm và nhiều địa y tạo nên những đốm loang lổ. Phiến lá thuôn dài, dài 26cm, rộng 2cm, đầu nhọn, đuôi hơi thuôn. Bẹ mo hình thang cân, đáy dưới 30cm, đáy trên 8cm hơi lõm, cao 28cm. Lá mo hình mũi giáo dài 20cm rộng 4cm. Tai mo biến thành lông. Thìa lìa xẻ sâu.

  1. Đặc điểm sinh học, sinh thái học.

2.1. Điều kiện tự nhiên

Vùng Lồ ô phân bố có khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng  rõ rệt của gió mùa: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,2°C, lượng mưa hàng năm 2044,8mm tập trung từ tháng 4 đến tháng 11. Độ cao so với mặt biển 100 – 400m. Địa hình là những đồi thấp, nhấp nhô, lượn sóng. Đất mầu đỏ hoặc nâu vàng, thành phần cơ giới thịt hoặc sét, thoát nước tốt, không có đá lẫn, lớp đất dấy trên 100cm, độ phì cao.

2.2. Đặc điểm quần thể, sinh sản, sinh trưởng và phát triển

Rừng Lồ ô đựơc hình thành trong quá trình diễn thế do khai thác rừng gỗ; có khả năng phát triển ở mọi vị trí của các dạng địa hình nhưng tập trung nhất là ở sườn và đỉnh đồi; mọc tự nhiên thành quần tụ lớn, thuần loại hoặc hỗn giao với với một số loài cây gỗ như: Gáo (Adina sp.), Đỏ Ngọn (Cratoxylon sp.), Thị (Diospyros sp.), Cò Ke (Grewia paniculata) hoặc các loài tre khác như Mum, Nứa …

Người dân cho biết Lồ ô ra hoa kết hạt ở từng khóm hoặc từng cây trong khóm rồi chết, những cây hoặc những khóm còn lại vẫn sinh trưởng bình thường. Chưa gặp ra hoa hàng loạt.

Hàng năm măng mọc từ tháng 6 đến tháng 10. Đầu vụ măng mọc rải rác, tỉ lệ phát triển thành thân khí sinh rất thấp. Giữa vụ (từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 8), măng lên nhiều , bình quân 70-100 măng trên 1ha một ngày, rộ nhất vào đầu tháng 8 tới 230 măng trên 1ha một ngày, măng đều to, khoẻ ít bị chết. Cuối vụ (tháng 9 tháng10), măng mọc rải rác và chết nhiều nhất. Lượng măng trên 1ha tuỳ thuộc trạng thái rừng: Rừng già thường 2500-3000 măng /1ha, rừng ổn định sau khai thác thường 3.500-4.000 măng/ 1ha, sau chặt trắng lên tới 6.000-7.000 măng /1ha  . Măng thường chết ở độ cao 30cm,tỉ lệ măng chết trong cả vụ khoảng 30-40% nhưng với lượng măng sinh ra cũng đủ cho rừng Lồ ô phục hồi ổn định đạt mật độ 6.500 cây/1ha ở rừng nguyên mới hình thành sau khai thác rừng gỗ đến 10.500 cây/1ha ở trạng thái rừng sau khai thác đang trong quá trình phục hồi với số khóm từ 550-900 khóm/1ha. Phân bố số cây theo tổ tuổi ở rừng già thường là: Tuổi non 19%, tuổi vừa 15% , tuổi già 66% – những rừng này cần phải đưa vào khai thác. Điều cần được quan tâm là sau khi bị tác động thì tốc độ phục hồi, tuy nhanh nhưng chất lượng cây (chiều cao, đường kính), thì giảm mạnh. Thời gian sinh trưởng của măng lồ ô khoảng 70 ngày. Tuổi thành thục là sau 3 năm. Tuổi thọ không quá 8-10 năm.

  1. Phân bố

Lồ ô mọc phổ biến – phân bố rộng rãi ở vùng Đông Nam Bộ, tập trung nhiều ở Tỉnh Bình Long – Riêng Huyện Phước Long rừng Lồ ô chiếm tới 40% diện tích toàn Huyện.

  1. Giá trị sử dụng

Thân Lồ ô có tỉ lệ Xenlulo trên 50%, Lignin 22,37%, chiều dài sợi 1,9-2,2mm; vì vậy được dùng làm nguyên liệu tốt cho sản xuất giấy trắng cao cấp, có độ dai cao.

Lồ ô có khối lượng thể tích khô kiệt là 785kg/m3, độ bền nén dọc thớ 598,7kg/cm2, độ bền uốn xuyên tâm là 3448kg/cm2. đọ bền uốn tiếp tuyến 2499kg/cm2 (Đoàn Thị Thanh Hương – 2001), đáp ứng nhu cầu trong xây dựng. Cây có lóng dài thích hợp để chế biến ván ép. Trong cuộc sống hàng ngày Lồ ô đáp ứng nhu cầu sinh hoạt từ việc làm đồ dùng đến măng ăn.

  1. Kỹ thuật kinh doanh

– Quản lý chăm sóc rừng: Lồ ô là cây rừng tự nhiên nó có khả năng phục hồi sau khi bị tác động nếu được quản lý bảo vệ chăm sóc tốt. Nội dung chủ yếu là dọn vệ sinh chống sâu bệnh, loại trừ cây khô cây đổ gẫy, tránh lấy măng quá mức. Tỷ lệ măng lấy đi không nên quá 20-30%, chỉ nên lấy măng cuối vụ và một phần măng đầu vụ.

– Khai thác: Về nguyên tắc có thể chặt từ cây tuổỉ 3 và phương thức chung là chặt chọn từng cây theo cấp tuổi. Từ kết quả thí nghiệm về khai thác rừng Lồ ô của Lâm Xuân Sanh, Châu Quang Hiền, Đoàn Bổng và các cộng sự thì có thể áp dụng chu kỳ 1,2 hay 3 năm tương ứng với tỷ lệ chặt 25%, 50%, 75%; chu kỳ 2 năm với cường độ 50% có thể là thích hợp hơn cả.

  1. Hiện trạng sản xuất

Hiện nay nhu cầu sử dụng Lồ ô rất nhiều nhưng việc quản lý còn nhiều lỏng lẻo: Khai thác quá lượng cho phép, không đảm bảo vệ sinh sau khai thác… Với tình trạng khai thác như hiện nay thì phải sau 10 năm rừng mới có thể phục hồi như ban đầu. Hơn nữa lượng măng cũng bị lấy quá mức cho phép. Vào mùa măng người dân vẫn tự do vào rừng lấy măng!

Với các tác động trên, rừng Lồ ô ngày càng cạn kiệt về số lượng, suy giảm về chất lượng; đó là chưa kể đến rừng Lồ ô còn bị xâm lấn để sử dụng vào mục đích khác.

  1. Khuyến nghị

– Cần quản lý chặt chẽ, khai thác hợp lý để đảm bảo tái sinh rừng đáp ứng nhu cầu sử dụng Lồ ô ngày càng nhiều.

– Cần có quy hoạch vùng phát triển Lồ ô, khoanh nuôi chăm sóc rừng thứ sinh có Lồ ô để tăng thêm diện tích, trữ lượng và chất lượng rừng Lồ ô.

– Tiến hành nghiên cứu kinh doanh Lồ ô một cách khoa học hơn và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, làm cơ sở cho công tác chỉ đạo sản xuất.